Bệnh câm hay chứng không nói được có thể là bẩm sinh, rối loạn ngôn ngữ hoặc sự rối loạn những hoạt động bên trong của não. đa số người không nói vì rối loạn trầm cảm. Phần lớn những người bị câm là vì bị điếc từ bé. Một tác dụng phụ của thuốc như chấn thương, tai nạn hay bệnh có thể gây giảm cảm nhận thính giác dẫn đến mất khả năng ngôn ngữ.
Câm điếc bẩm sinh bệnh học: Câm điếc bẩm sinh có thể là nguyên nhân di truyền hay do nguyên nhân mắc phải khi mẹ mang thai khoảng ba tháng đầu hoặc cũng có thể kết hợp cả hai yếu tố như di truyền và bị mắc phải. Câm là kết quả của bệnh điếc sớm ở trẻ, thường trẻ bị điếc ngay sau khi sinh ra nên không nhận được những tín hiệu âm thanh khiến trẻ khó nói và gây câm.
Nguyên nhân bệnh Câm
Có nhiều nguyên nhân bệnh câm cho trẻ:
Di truyền: Gen câm điếc ở trên nhiễm sắc thể bình thường, di truyền theo gen trội hoặc gen lặn đều có thể dẫn đến điếc. Các nhà khoa học đã phát hiện một loại gen gây điếc có tên là gen PDS.
Người có thể hình dạng bình thường nhưng có gen di truyền câm điếc là gen lặn ở thể đồng hợp tử, nếu kết hôn với người bình thường (không mang gen lặn) thì con của họ sinh ra sẽ bình thường. Hoặc con không bị điếc cũng mang gen lặn ở thể dị hợp tử, và Nếu người mang gen lặn ở thể đồng hợp tử kết hôn với người cùng mang gen lặn (đồng hợp tử hay bất hợp tử) , thì con của họ sinh ra sẽ bị câm điếc.
Đột biến liên quan đến 4 gen GJB2, GJB3, SLC26A4, 12S rRNA.
Do bị điếc bẩm sinh
Tổn thương một số phần thân thể có liên quan đến nói như: lưỡi, cổ họng, dây thanh quản. ..
Chấn thương vùng broca (vùng có liên quan với phát triển ngôn ngữ) .
Nguyên nhân câm ở trẻ em chủ yếu do trẻ sinh ra bị điếc nhưng không được phát hiện sớm gây thành chứng câm điếc bẩm sinh.
Triệu chứng bệnh Câm
Trẻ sơ sinh đến 3 tháng tuổi: bé không có hoạt động tay chân, không phản ứng khi có tiếng động lớn xảy ra và ít khóc.
Trẻ từ 3-6 tháng tuổi: bé chưa phân biệt được giọng nói của cha mẹ, dù bé đã phát ra âm thanh nhưng không thể xác định được nguồn âm.
Trẻ từ 5-9 tháng tuổi: bé không hiểu được ý kiến của người lớn, ví dụ như khi mẹ kêu bé vẫy tay để chào tạm biệt nhưng bé không phản ứng theo.
Trẻ 10-12 tháng tuổi: ở giai đoạn này, bé bắt đầu phát ra những tiếng đầu tiên như “bố,” “mẹ,” “ông,” “bà,” hoặc những từ đơn giản khác.
Hơn nữa, bé không phản ứng khi nghe âm thanh hoặc không nhận ra khi gọi tên mình. Khi nhìn thấy những dấu hiệu như vậy, có thể nghĩ đến khả năng bé bị điếc bẩm sinh hoặc có vấn đề về khả năng nghe của bé.
Thực tế, khả năng giao tiếp qua lời nói của con người là kết quả của quá trình học từ sơ sinh. Trẻ em học nói chủ yếu thông qua việc tương tác và nhận biết từ người xung quanh, bao gồm cha mẹ, người thân và cả bạn bè, giáo viên. Bằng cách mô phỏng và bắt chước người lớn, chúng dần dần nắm vững kỹ năng nói.
Tuy nhiên, trong trường hợp không may, một trẻ sơ sinh đã mất khả năng nghe hoặc bị điếc, chúng sẽ không thể tiếp thu âm thanh từ môi trường bên ngoài để bắt chước. Điều này dẫn đến việc trẻ cũng không thể học nói, trừ khi chỉ có thể phát ra một số âm đơn giản và thường gọi là bệnh câm điếc.
Đối với người câm, không nhất thiết bị gây ra bởi bệnh điếc, vì khả năng nghe không liên quan trực tiếp đến khả năng phát âm. Cơ quan phát âm, nơi tạo ra âm thanh, hoàn toàn riêng biệt với cơ quan thính giác của con người.
Tuy nhiên, khi bị câm, người bệnh gặp khó khăn trong việc giao tiếp trực tiếp qua lời nói với mọi người xung quanh, dù có thể nghe được một ít hoặc nhiều. Theo thời gian, tình trạng này có thể dẫn đến hiện tượng ù tai và mất khả năng nghe.
Vì vậy, điếc không hoàn toàn phụ thuộc vào tình trạng câm, nhưng câm lại là một trong những nguyên nhân dẫn đến mất khả năng nghe. Ngoài ra, còn tồn tại một số nguyên nhân khác có thể gây ra tình trạng điếc.
Đối tượng nguy cơ bệnh Câm
Trẻ sinh thường
Tai của trẻ sinh thường bắt đầu nhú khi được khoảng tám tuần tuổi và từ khoảng tuần thứ 18 thì xương tai trong cùng khớp nối thần kinh não đã phát triển hoàn chỉnh đến tuần thứ 24 cơ quan thính giác của trẻ phát triển đủ để bé có thể nghe thấy các âm thanh như tiếng tim mẹ đập hay tiếng máu rơi xuyên qua dây rốn, . ..
Trẻ có thể bị đánh thức vì tiếng động lớn. Âm thanh có tác dụng như một kênh thông tin của bé với thế giới bên ngoài. Vào khoảng tuần thứ 25, bé bắt đầu nghe được giọng nói của mẹ ngay từ những giọng nói bên ngoài và có thể sẽ phát hiện ra giọng nói của mẹ khi được 27 tuần tuổi.
Nhưng những âm thanh có thể bị bóp méo khi tai bé hãy đang bị bao phủ bởi chất dịch nhờn và là một chiếc áo choàng giữ làn môi không bị nứt do nước ối. Bé cũng có thể cử động hay điều chỉnh vị trí trong người mẹ để phản ứng lại với âm thanh bất ngờ từ tiếng cửa sổ đóng sập hoặc còi xe hơi. ..
Bệnh viêm tai giữa cấp hay gặp nhất ở trẻ nhỏ
Gồm 2 loại chính: Viêm tai giữa cấp tính mủ nếu được xử lý kịp thời sẽ hết hoàn toàn không để lại di chứng. Viêm tai giữa cấp mãn tính mủ sẽ để lại di chứng ảnh hưởng đến khả năng nghe rất có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng gây điếc cho trẻ.
Bệnh viêm màng não
Gây tổn thương dây thần kinh sọ não: trong VMN mủ có thể tổn rất nhiều dây thần kinh sọ não như dây II, III, IV, VI, VII, VIII. .. trong đó có dây VIII (tiền đình ốc tai) đặc trưng cho thính giác khi viêm màng não gây tổn thương dây VIII hoặc nhánh ốc tai trẻ có thể bị điếc nếu được điều trị bằng một số thuốc kháng sinh gây độc dây VIII như kháng sinh nhóm aminoglycosid: gentamycin, streptomycin, . .. nhất là với trẻ sơ sinh di chứng để lại rất nặng nề và không thể điều trị.
Mẹ hút thuốc lá suốt thai kì
Theo nhiều nghiên cứu đã cho thấy một số chất độc từ khói thuốc lá, bao gồm nicotine và carbon monoxide, có thể theo máu của mẹ chuyển vào thai nhi gây ra các ảnh hưởng xấu.
Khói thuốc lá chứa khoảng hơn 7.000 loại hoá chất độc hại, các chất này, bao gồm nicotin và carbon monoxide có thể theo máu của mẹ chuyển vào thai nhi gây ra nhiều ảnh hưởng nặng nề nếu mẹ vô tình hoặc không tiếp xúc với khói thuốc lá.
Nicotin và khí CO có trong khói thuốc là chất gây ảnh hưởng nghiêm trọng cho phôi thai trong dó có nguy cơ gây điếc bẩm sinh ngay cả khi trẻ mới đẻ ra, nguy cơ bị điếc về thần kinh cao hơn 3 lần so với các em bé được tạo ra từ những bà mẹ không có tiền sử hút thuốc hay không bao giờ tiếp xúc với khói thuốc.
Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra rằng khói thuốc lá ảnh hưởng lên khả năng xử lý âm thanh của não bé, cơ quan thính giác của trẻ rất dễ dàng bị tổn thương do chất nicotin khi khả năng xử lý âm thanh bị ảnh hưởng sẽ ảnh hưởng đến việc phát triển ngôn ngữ của trẻ.
Nguyên nhân dễ gây sinh non từ việc dẫn đến gia tăng nguy cơ nhiễm trùng nhiễm khuẩn gây viêm màng não, viêm tai giữa và tổn thương thần kinh trong đó có dây VIII gây điếc.
Cho thai nhi nghe âm thanh với tần số cao trên 120dB
Cũng có thể gây tổn thương cho những sợi thần kinh thính giác ảnh hưởng đến khả năng thính giác của trẻ và ngay kể cả khi mở ở mức thấp 90 dB trong thời gian không quá 8 tiếng cũng gây hại cho thính giác của thai nhi.
Có nhiều yếu tố nguy cơ dẫn đến câm điếc bẩm sinh do mang thai sớm, mẹ mang thai không được chăm sóc đầy đủ gây suy dinh dưỡng thai nhi, trẻ đẻ non, mắc những bệnh về đường hô hấp, hay tiếp xúc với âm thanh có tần số cao. .. dẫn đến điếc là nguyên nhân gây ra bệnh câm.
Phòng ngừa bệnh Câm
Để tránh các yếu tố nguy cơ, có những biện pháp cần thực hiện. Đầu tiên, phụ nữ mang bầu nên tránh hút thuốc lá và tiếp xúc với khói thuốc, bởi vì các chất độc trong thuốc lá có thể gây hại cho thai nhi và ảnh hưởng đến sự phát triển của hệ thính giác.
Hơn nữa, người mẹ cũng nên tránh để thai nhi nghe những âm thanh có tần số cao hơn mức ngưỡng an toàn, vì nó có thể gây tổn thương cho tai và hệ thính giác của trẻ.
Ngoài ra, kiểm tra sức khoẻ của trẻ là rất quan trọng. Theo khuyến cáo của Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ (AAP), trẻ cần được kiểm tra thính giác trong các giai đoạn quan trọng. Đó là khi trẻ bắt đầu đi học mẫu giáo, và sau đó vào các lứa tuổi 6, 8 và 10.
Ngoài ra, ít nhất một lần khi trẻ bước vào trung học cơ sở và một lần nữa giữa thời gian học trung học phổ thông. Những cuộc kiểm tra thính giác định kỳ này giúp phát hiện sớm các vấn đề về thính giác và đưa ra biện pháp can thiệp kịp thời.
Tổng kết lại, để tránh nguy cơ và bảo vệ sức khoẻ thính giác của trẻ, cần tuân thủ các biện pháp như không hút thuốc lá khi mang thai và tránh tiếp xúc với khói thuốc, cũng như không để thai nhi nghe âm thanh có tần số cao hơn mức ngưỡng an toàn.
Đồng thời, việc kiểm tra thính giác định kỳ theo khuyến cáo của AAP cũng đóng vai trò quan trọng để phát hiện sớm các vấn đề thính giác và can thiệp kịp thời cho trẻ.
Các biện pháp điều trị bệnh Câm
Chẩn đoán bệnh câm hoàn toàn căn cứ trên triệu chứng lâm sàng của trẻ mà không phải làm thêm xét nghiệm tiền lâm sàng nào.
Thông thường trẻ bị mất thính lực vì bệnh lý như viêm tai giữa hay khiếm thính do bẩm sinh hoặc di chứng sau viêm não – màng não là tổn thương có tính lâu dài khiến trẻ không phục hồi được hoàn toàn và phải mang khuyết tật suốt đời.
Với các ca nặng, khi phát hiện sớm, trẻ sẽ được hướng dẫn dùng máy nghe, máy trợ thính hoặc cấy ghép ốc tai điện tử để có thể học nghe, học nói sớm và phát triển như bình thường, càng lớn hơn việc trị liệu lại trở nên khó vì trong não có một vùng thần kinh chi phối việc nghe – nói. Nếu vùng ấy không được kích hoạt trong 2-3 năm đầu đời sẽ bị thoái triển.
Khoảng thời gian trên nếu có được hỗ trợ âm thanh thì trẻ vẫn có thể nghe tuy nhiên khả năng nói không phát triển. Nhiều chuyên gia khác cũng nhận định nếu chỉ dùng ốc tai điện tử từ 7 tuổi sẽ không có ý nghĩa.
Đọc môi và ngôn ngữ ký hiệu: Một tỷ lệ cao những người khiếm thính có thể học các kỹ năng nói khác trong tương lai đọc môi và ngôn ngữ ký hiệu sẽ thay thế hoặc bổ trợ cho giao tiếp răng miệng.
Có phải trẻ bị điếc sẽ bị câm?
Không phải tất cả trẻ bị điếc đều bị câm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong đa số các trường hợp, trẻ bị điếc thường đi kèm với tình trạng câm. Điều này có thể do nhiều nguyên nhân, không chỉ giới hạn trong các trường hợp bẩm sinh.
Một số nguyên nhân khác bao gồm việc không có can thiệp kịp thời hoặc không tạo điều kiện để trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua việc giao tiếp và tương tác với cha mẹ.
Đối với trẻ bị điếc trước khi họ học nói (trước 2 tuổi), thường được gọi là điếc bẩm sinh, tình trạng câm là kết quả của sự mất khả năng nghe từ sớm. Do trẻ không thể tiếp thu âm thanh và bắt chước, họ không có cơ hội rèn luyện và phát triển ngôn ngữ, dẫn đến tình trạng câm điếc.
Tuy nhiên, nếu có can thiệp kịp thời và cha mẹ kiên nhẫn tạo cơ hội cho trẻ luyện tập ngôn ngữ, giúp trẻ hiểu ý của người nói, thì ngay cả khi trẻ bị điếc bẩm sinh, họ vẫn có thể học nói. Việc can thiệp và tạo điều kiện phù hợp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ và giao tiếp bình thường, bất chấp tình trạng điếc.
Tóm lại, điếc không đồng nghĩa với câm. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, trẻ bị điếc có thể gặp tình trạng câm. Sự can thiệp kịp thời và môi trường tương tác thuận lợi là yếu tố quan trọng để giúp trẻ vượt qua khó khăn và phát triển khả năng ngôn ngữ.
Tham khảo thêm: Trẻ bị sốt phải làm sao? 10+ Cách hạ sốt cấp tốc cho bé mà mẹ nên biết
Trẻ em bị sún răng phải làm sao? Sún răng là gì? & 3 cách chữa sún răng